Nền kinh tế Chile
Bản đồ
A. Vài nét về Chile
-
Vị trí địa lý: Nằm trải dài dọc theo bờ biển Nam Mỹ giữa rặng núi Andes và Thái Bình Dương; phía bắc giáp với Peru, phía đông bắc giáp Bolivia, phía đông giáp Argentina, phía Tây giáp Thái Bình Dương và đông nam giáp Đại Tây Dương.
-
Khí hậu: Đa dạng do địa hình trải dài từ bắc xuống nam, có khí hậu hoang mạc ở phía bắc, khí hậu Địa Trung Hải ở miền trung, khí hậu lạnh và ẩm ướt ở phía nam.
-
Diện tích: 756.950 km2
-
Dân số: 16.432.674 người (tính đến tháng 6-2006)
-
Ngôn ngữ: Tiếng Tây Ban Nha, tiếng thổ dân Mapuche
-
Đơn vị tiền tệ: Đồng peso (CLP)
-
Nhà lãnh đạo Kinh tế hiện nay: Tổng thống Michelle Bachelet
Rặng núi
B. Nền kinh tế Chile:
Chile là một trong những nền kinh tế tương đối phát triển ở châu Mỹ La tinh, tỷ lệ tăng trưởng ổn định và tương đối cao so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Nền kinh tế Chile đi theo mô hình tự do hóa và thu hút nhiều đầu tư nước ngoài. Trong gần ba thập kỷ qua, Chile theo đuổi chính sách phát triển kinh tế vững chắc.
Đường phố
Tăng trưởng GDP: Sau hơn một thập kỷ tăng trưởng cao liên tục, năm 1999 nền kinh tế Chile tăng chậm lại do sự suy thoái của nền kinh tế thế giới. Năm 2003, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi với mức tăng trưởng 3,3%, sang năm 2004 đạt 6,1% và giữ ở mức 6% năm 2005. Nền kinh tế Chile phục hồi là nhờ môi trường quốc tế thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng khu vực tư nhân và đầu tư tăng, điều kiện lao động được cải thiện. Năm 2005, GDP của
Lạm phát: Ngân hàng Trung ương Chile áp dụng chính sách duy trì lạm phát ở mức 2% - 4%. Năm 2004, lạm phát là 2,4% và năm 2005 là 3,1%. Lạm phát đang có xu hướng tăng là do nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế tăng mạnh cộng với giá năng lượng thế giới tăng cao.
Việc làm: Tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh ở mức 8%-10% trong những năm gần đây, cao hơn mức 5%-6% trong thập niên 90. Năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp là 8,1%. Hầu hết các nhà quan sát quốc tế đều cho rằng tỷ lệ thất nghiệp cao là do luật lao động của Chile quá phức tạp và khắt khe. Lương tăng ở mức cao hơn lạm phát là nhờ năng suất tăng cao, làm cho đời sống người dân được cải thiện đáng kể.
Thương mại: Nền kinh tế Chile phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế. Năm 2005, xuất khẩu chiếm khoảng 39% GDP. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Chile tăng 12,8% nhờ xuất khẩu hàng hóa tăng 14,1% và dịch vụ tăng 0,8%. Mặt hàng xuất khẩu truyền thống chủ lực của Chile là đồng và Công ty Codelco do nhà nước Chile sở hữu là công ty sản xuất đồng lớn nhất thế giới với trữ lượng đồng luôn đạt mức kỷ lục trong 200 năm. Chile cũng đang nỗ lực mở rộng khu vực xuất khẩu phi truyền thống với những mặt hàng như thực phẩm, trái cây, hải sản, gỗ, đồ nội thất, giấy, sản phẩm in, máy móc thiết bị và rượu vang. Cán cân thương mại năm 2005 đạt thặng dư 8 tỷ USD nhờ giá trị xuất khẩu đạt 38 tỷ USD. Năm 2005, Chile nhập khẩu khoảng 30 tỷ USD, trong đó hàng hóa chiếm 66% tổng giá trị nhập khẩu.
Làng chài ở Los Lagos
Chile đã ký hiệp định tự do thương mại với nhiều đối tác lớn như Hoa Kỳ (2003), Canada, Mexico, Trung Mỹ, Liên minh Châu Âu, Hàn Quốc, New Zealand, Singapore, Brunei Darussalam, và Trung Quốc; đang trong quá trình đàm phán với Nhật Bản và Ấn Độ. Các thị trường chính của Chile gồm châu Âu (25,1%), châu Á (33,1%), Mỹ La tinh (15,7%), Bắc Mỹ (19%), trong đó Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của Chile (nhập khoảng 17,3% tổng giá trị xuất khẩu của Chile).
Cán cân thanh toán: Năm 2004, cán cân thanh toán đạt mức thặng dư tài khoản vãng lai gần 1,9 tỷ USD, xấp xỉ 2% GDP. Mức thặng dư này là nhờ vào thặng dư xuất khẩu hàng hóa và tài khoản giao dịch.
Tỷ giá hối đoái: Chile thực hiện tỷ giá hối đoái thả nổi và đây là một yếu tố biến động có tác động tới nền kinh tế trong nước. Do đó, khi đồng USD yếu đi trên thị trường tài chính, tạo ra điều kiện tài chính tốt hơn và cải thiện cán cân thanh toán.
Chính sách thu chi ngân sách: Triển vọng ngân sách ngắn hạn là khá ổn định. Thặng dư ngân sách tích lũy của Chính phủ đã đạt 2,9% GDP là nhờ sự tăng nguồn thu đều hàng năm (23,3%) bù đắp cho chi tiêu ngân sách tăng lên (5,1%). Chính phủ Trung ương đẩy mạnh tiết kiệm, đạt 2% GDP năm 2004.
Tòa nhà Bolsa de Comercio ở
Nợ khu vực công: tính đến tháng 6-2004, nợ ròng của Chính phủ Trung ương ở mức 5,9% GDP, thấp hơn một điểm phần trăm so với tháng 12-2003 nhờ mức thặng dư ngân sách và tăng trưởng GDP. Tổng nợ nước ngoài của cả khu vực công và tư là khoảng 50% GDP tính đến cuối năm 2004. Năm 2005, nợ nước ngoài của
Dự trữ ngoại tệ và vàng: 16,93 tỷ USD (năm 2005).
Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ đang trong thời gian duy trì mở rộng. Các khoản vay vẫn tiếp tục có hiệu quả và các công ty sử dụng nhiều nguồn tài chính khác ngoài tín dụng ngân hàng; lãi suất ngân hàng đã được điều chỉnh tăng lên (mặc dù vẫn còn ở mức thấp) và tổng lượng tiền lưu thông đã tăng đáng kể. Từ tháng 9-2004, Ngân hàng Trung ương đã giảm dần biện pháp kích thích tăng lượng tiền đi kèm với kìm giữ lạm phát ở mức 3%. Sau mức tăng mạnh tháng 9-2004, lãi suất trên các công cụ tài chính của Ngân hàng Trung ương đã giảm và hiện giờ đang đứng ở mức cao hơn năm 2003.
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Papua-New_Guinea
http://www.apec.org/content/apec/member_economies/economy_reports.html
“ Các nước trên thế giới”, Bộ Ngoại giao, 2000
(T. Trinh, Phòng Chính trị Kinh tế đối ngoại, ngày 31-7-2006)
Các tin liên quan:
- Nền kinh tế New Zealand (12-10-2006)
- Nền kinh tế Mexico (12-10-2006)
- Nền kinh tế Malaysia (12-10-2006)
- Nền kinh tế Hàn Quốc (12-10-2006)
- Nền kinh tế Nhật Bản (12-10-2006)
- Nền kinh tế Indonesia (12-10-2006)
- Nền kinh tế Hồng Kông của Trung Quốc (12-10-2006)
- Nền kinh tế Trung Quốc (12-10-2006)
- Nền kinh tế Canada (12-10-2006)
- Nền kinh tế Brunei Darussalam (12-10-2006)
Cập nhật 12-10-2006